Header

Ban biên tập

  • Nguyễn Văn Bộ - Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
  • Trần Minh Tiến - Viện Thổ nhưỡng Nông hóa
  • Bùi Huy Hiền - Hội Khoa học đất
  • Bùi Quang Đãng - Ban Khoa học & HTQT, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
  • Đỗ Minh Phương -  Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp
  • Trần Thị Minh Thu - Viện Thổ nhưỡng Nông hóa


Giới thiệu chung

Yêu cầu sinh thái

Dinh dưỡng và khoáng cần thiết đối với đậu tương

Kỹ thuật trồng đậu tương

Bón phân cho đậu tương

 

Giới thiệu chung

Đậu tương (Glycine max (L) Merr.) còn gọi là đậu nành là một cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Khó có thể có tìm thấy một cây trồng nào có tác dụng nhiều mặt như cây đậu tương. Sản phẩm của nó làm thực phẩm cho con người, thức ăn cho gia súc nguyên liệu cho công nghiệp, hàng xuất khẩu và là cây cải tạo đất tốt. Vì thế cây đậu tương được gọi là "Ông Hoàng trong các loại cây họ đậu ".
Đậu tương là cây trồng lấy hạt, cây có dầu quan trọng bậc nhất trên thế giới, đứng hàng thứ 4 sau cây lúa mì, lúa nước và ngô. Do khả năng thích ứng rộng nên nó đã được trồng ở khắp năm châu lục, nhưng tập trung nhiều nhất ở châu Mỹ trên 70%, tiếp đến là châu Á.

 


 

Ở Việt Nam, một số tài liệu cho rằng cây đậu tương được đưa vào trồng nước ta từ thời vua Hùng và xác định rằng nhân dân ta trồng cây đậu tương trước cây đậu xanh và cây đậu đen (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Ngày nay đậu tương đã trở nên quen thuộc với nhân dân ta. Các món ăn chế từ đậu tương trở thành những món ăn phổ biến thường ngày. Tuy nhiên đậu tương trồng ở nước ta chủ yếu là sử dụng làm thực phẩm mang tính tự cung tự cấp. Trong những năm gần đây, cây đậu tương đã phát triển khá nhanh cả về diện tích và năng suất góp phần tạo ra mặt hàng tiêu dùng nội địa quan trọng.

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Yêu cầu sinh thái


Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển từ 15-370C (tùy từng giai đoạn mà nhu cầu nhiệt khác nhau: giai đoạn nẩy mầm thích hợp 24 – 300C, giai đoạn cây con từ 24-300C, giai đoạn ra hoa kết trái từ 24-340C ,giai đoạn chín: 20-250C), ẩm độ không khí 75-80%, ẩm độ đất 70-80%. Cây đậu nành là loại cây hàng năm, thời gian sinh trưởng ngắn 70-110 ngày tùy từng giống. Đất trồng đậu nành rất đa dạng không kén đất, đất thích hợp nhất đối với cây đậu nành là loại đất có tầng canh tác sâu, giàu chất hữu cơ, canxi, kali và pH trung tính, giữ ẩm tốt, dễ thoát nước. Đậu nành chịu mặn và chua kém hơn nhiều cây trồng khác, độ pH thích hợp nhất là 6,0-7,0. Đậu nành có thể được trồng quanh năm, mỗi năm có thể trồng 2-3 vụ tùy vào nguồn nước tưới (Đông Nam bộ vụ hè thu và thu đông, Tây Nam bộ vụ xuân hè và đông xuân và miền Bắc 3 vụ xuân, hè và đông hay thu đông). Mật độ trồng thích hợp 30-50 cây/m2. Giống phổ biến ngắn ngày 70-80 ngày, giống trung ngày 85-90 ngày và giống dài ngày 95-110 ngày.


(Nguồn: http://www.congtyhai.com/ky-thuat-bon-phan-cho-cay-dau-nanh).

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Dinh dưỡng khoáng cần thiết đối với đậu tương


Có 16 nguyên tố cần thiết cho sinh trưởng của cây đậu tương. Trong những số đó, 3 nguyên tố C, H và O là thành phần chủ yếu trong chất khô và được hấp thụ dưới dạng CO2, H2O và O2 tự do trong không khí. Những nguyên tố cần thiết khác là N, P, K, Ca, Mg, S, Fe, Mn Mo, Cu, B, Zn và Cl. Bên cạnh đó Co là nguyên tố có ích cho cố định N và cũng được coi là nguyên tố cần thiết (Ngô Thế Dân và cs, 1999).Các nghiên cứu về sự hấp thụ N, P K ở các giống đậu tương với tập tính sinh trưởng vô hạn cho thấy kiểu hấp thụ N, P và K ở trong cây giống nhau và sự tích luỹ tối đa của nó xảy ra ở giai đoạn chín sinh lý (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Với các giống đậu tương sinh trưởng hữu hạn, cho thấy tỷ lệ hấp thụ các chất khoáng N, P, K, Ca và Mg tăng dần qua các giai đoạn hình thành hạt. Tỷ lệ hấp thụ tối đa tương ứng của chúng là 7,7, 0,41, 0,46, 2,4 và 0,77 kg/ha (Ngô Thế Dân và cs, 1999).

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Kỹ thuật trồng đậu tương


a. Chuẩn bị hạt giống
Hạt giống tốt là hạt to, đồng đều đẫy chắc, tỷ lệ nảy mầm ít nhất 85%, không có mầm mống bệnh.


• Lượng hạt giống
Phụ thuộc chủ yếu vào mật độ cần thiết cho mỗi giống và độ to nhỏ của hạt. Ví dụ giống Cúc Hà Bắc gieo trong vụ hè cần 40 - 50 kg/ha, nhưng với giống ĐH4 lại cần từ 75 - 80 kg/ha. Nhìn chung tuỳ thuộc và đặc tính của giống như thời gian và tập tính sinh trưởng và P1000 hạt mà lượng hạt giống cần thiết cho một đơn vị diện tích khác nhau. Nhưng lượng hạt giống thường là:
+ Giống chín sớm: 50-60 kg/ha.
+ Giống chín trung bình: 40-50 kg/ha.
+ Giống chín muộn: 30-35 kg/ha.


• Xử lý hạt giống

Hạt trước khi gieo cần được xử lý như sau:
Phơi một vài nắng nhẹ trước khi gieo trồng (tránh không nên phơi trên nền xi măng) vì nếu ở nhiệt độ cao sự hoạt động của các men trong hạt bị giảm.
Xử lý thuốc diệt nấm bệnh : ví dụ như Faliran 0,15% trộn đều với hạt ủ khô trong 24-28 ngày nhằm tiêu diệt mầm mống của bệnh.
- Xử lý phân vi lượng: Người ta thường dùng molipđat môn 1-2 kg/ha xử lý khô nhằm tăng thành phần của Mo.
Tiến hành nhiễm khuẩn Rhizobium cho hạt trước khi gieo trồng nhằm tăng khả năng hình thành nốt sần để tăng khả năng cố định đạm khí trời cây.


b. Thời vụ

Cây đậu tương mẫn cảm với điều kiện thời tiết. Thời vụ không những ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển của cây, tới năng suất, phẩm chất của hạt mà còn ảnh hưởng cả với những cây trồng tiếp sau trong hệ thống luân canh (Trần Đình Long và cs, 2001b). Ở nước ta có thể trồng nhiều vụ trong năm.


* Vụ xuân
Thời vụ gieo thích hợp nhất cho vùng miền núi phía Bắc là: 15/2-10/3, đồng bằng: 1/2-1512, Bắc Trung bộ: 10/1- 10/2. Bên cạnh xuân chính còn có vụ xuân hè gieo từ tháng 10/3-10/4.


* Vụ hè
Hầu hết các giống có thể trồng được trong vụ hè, do điều kiện thuận lợi có thể gieo khắp nơi, nhưng tập trung nhiều ở các tỉnh miền núi, ở các chân ruộng đồi bãi, phù sa. Thuận lợi lúc gieo chưa mưa to, nhưng lúc ấy ngô chưa chín nên gieo gối vào lúc ngô thâm râu tránh những vùng bị ngập do nước sông dâng vào tháng 7. Thời vụ gieo trồng từng giống như sau:
+ Giống chín sớm: 25/5-30/6.
+ Giống chín trung bình : 15/5- 15/6.
+ Giống chín muộn: 20/4-25/5.


* Vụ đông
Đưa đậu tương vào vụ đông sẽ tạo ra nhiều chuyển biến sâu sắc trong cơ cấu cây trồng ở vùng trọng điểm lúa. Vụ đông thường thường gặp rét, hạn và sống trong điều kiện ánh sáng ngày ngắn nên năng suất không cao. Thời vụ gieo sớm cuối tháng 9 đầu tháng 10 nói chung càng sớm càng tốt, cố gắng kết thúc trước 20/10. Khó khăn trong vụ đông khi làm đất gieo hạt gặp mưa cuối vụ khi thu hoạch về cũng bị mưa phùn khó ra hạt.
Ở miền Nam, điều kiện khí hậu ấm áp, đậu tương gieo từ 20/12 đến tháng 1, vụ hè thu gieo tháng 4 - 5, vụ thu đông gieo tháng 7 - 8.


c. Mật độ gieo trồng
- Giống chín sớm: Đảm bảo 50-60 cây/m2, khoảng cách cụ thể: hàng cách hàng 30- 35 cm, cây cách cây 5-6 cm, hoặc khóm cách khóm 20 cm/3-4cây.
- Giống chín trung bình: Đảm bảo 40-50 cây/m2, khoảng cách cụ thể là hàng cách hàng 35-40 cm, cây cách cây 7-8 cm, hoặc khóm cách khóm 20 cm/3-4 cây.
- Giống chín muộn: 15-20 cây/m2, khoảng cách cụ thể là hàng cách hàng 40- 45 cm, cây cách cây 12-15 cm, hoặc khóm cách khóm 25 cm/ 2 cây.


d. Nhiễm khuẩn Rhizobium

Để giảm mức bón phân đạm, cây đậu tương phải có một quần thể Rhizobium iaponicum thích hợp để hình thành nốt sần. Ở những đất mới trồng đậu tương lần đầu không có Rhizobium, để cho cây đậu tương có nhiều nốt sần cần nhiễm khuẩn trước khi gieo. Các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy biện pháp nhiễm khuẩn nốt sần thường đạt hiệu quả kinh tế cao trên đất mới trồng đậu tương lần đầu.
Các chế phẩm Rhizobium để nhiễm cho hạt trước khi gieo thường có tên gọi chung là Nitragin. Trộn phân vi sinh vật như nitragin hay các chế phẩm vi sinh vật khác với lượng 2 kg/ha với hạt giống trong nơi râm mát sau đó gieo ngay. Kinh nghiệm cho thấy nhiễm khuẩn năng suất đậu tương tăng 4-6% năng suất (Ngô Thế Dân và cs, 1999).

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Bón phân cho cây đậu tương

Đậu tương cần đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng cần thiết để sinh trưởng, phát triển bình thường. Nếu thiếu hoàn toàn hoặc thiếu bất cứ một yếu tố nào đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây. Để phát huy đầy đủ tác dụng của các loại phân bón cho đậu tương, cần phải hiểu rõ đặc tính lý hoá và thành phần dinh dưỡng của đất, đặc điểm tính chất của loại phân bón, đặc điểm dinh dưỡng của cây đậu tương. Đậu tương cảm ứng với muối khoáng hơn các loại cây trồng khác. Do đó khi bón phân cho đậu tương, không nên rắc tập trung mà nên vãi đều trên bề mặt để không ảnh hưởng đến sự nảy mần của hạt. Trong trường hợp đất nghèo dinh dưỡng hoặc lượng phân ít buộc phải bón tập trung thì nên rắc phân cách hàng 8 - 13 cm, lấp sâu 8 -10 cm. Không nên rắc phân ngay dưới hàng hạt, rễ sẽ ăn sâu thẳng xuống mà không phát triển bề rộng. Bón phân tập trung gần hạt, làm rễ mầm bị cháy, không bảo đảm mật độ cây.

 

• Phân đạm
Đậu tương là cây họ đậu có khả năng cố định đạm từ khí trời để cung cấp cho cây, do vậy người ta thường bón ít phân N cho đậu tương. Khả năng cố định N của vi khuẩn nốt sần phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Harper (1974) thấy rằng việc cố định N2 và sử dụng nitrate (NO3-) có tầm quan trọng để thu được năng suất tối đa (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Tuy nhiên, ông thấy nếu NO3- dư thừa có hại tới năng suất vì lúc đó sự cố định N2 bị ức chế hoàn toàn. Nhiều tác giả cho thấy, bón đạm không hợp lý, bón quá nhiều N hoặc bón không đúng thời kỳ sẽ ức chế sự hình thành, phát triển và hoạt động của vi khuẩn nốt sần. Trên các đất giàu dinh dưỡng, đáp ứng đủ nhu cầu NO3 cho cây đậu tương thì bón đạm không có tác dụng tăng năng suất. Tuy nhiên trên đất nghèo chất hữu cơ, kém thoát nước và rất chua thì bón phân đạm với lượng 50 - 60 kg N cho một ha sẽ có tác dụng tăng năng suất.


• Phân lân và vôi
Bón phân lân cho cây giảm tỷ lệ rụng nụ, rụng hoa, tăng tỷ lệ hạt chắc và tăng năng suất rõ rệt (Trần Văn Điền, 2001). Lân làm tăng hoạt động cố định đạm của vi khuẩn nốt sần. Tuỳ theo năng suất đậu tương cao hay thấp và thành phần lân có sẵn trong đất để xác định mức bón P hợp lý. Nhưng lượng phân lân thường được bón từ 30 - 100 kg P2O5 cho 1 ha, bón lót cùng với phân hữu cơ. Bón vôi cho đất chua để đạt pH khoảng 6-6,5 là yếu tố quan trọng để sản xuất đậu tương có hiệu quả. Đất có độ kiềm cao, pH > 7,5 có ảnh hưởng không tốt tới sản xuất đậu tương, nhưng không kinh tế khi ta cố gắng giảm pH đất. Trên các đất này, hàm lượng các nguyên tố vi lượng như Fe, Mn, Cu, B, Zn thường giảm. Như vậy, đối với loại đất này, nông dân phải chọn các giống có tính chống chịu cao và bón nhiều phân vi lượng.


• Phân kali
Ở đất nghèo kali, đất cát, đậu tương phản ứng rõ rệt với phân kali. Đối với các vùng trồng đậu tương thuộc đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, do đặc điểm đất ở đây tương đối giàu kali, hiệu quả bón phân kali cho đậu tương ở vùng này thấp.
Lượng phân kali bón thích hợp là 40 -70 kg K2O/ha, chia làm 2 lần; bón lót 50% kết hợp với 1/2 số phân đạm và bón thúc số phân còn lại khi cây có 3 - 5 lá kép.


• Phân vi lượng
Molipden (Mo) là nguyên tố quan trọng cho quá trình trao đổi N. Một số nước như Trung Quốc, Đài Loan, châu âu và Mỹ đã công bố năng suất đậu tương tăng do bón thêm vi lượng Mo. Lượng Mo dùng để xử lý hạt cần 17 g/ha, trong khi đó nếu bón vào đất cần 800 g/ha. Bón vôi để giữ pH đất 6,2 có thể có tác dụng phòng chống hiện tượng thiếu Mo.
Trên đất kiềm, đất cát, hiện tượng thiếu Mn thường xảy ra, bón phân Mn theo hàng cho hiệu quả cao hơn bón vãi, bón theo hàng kết hợp với phun lên lá cho hiệu quả cao hơn.


Qui trình bón phân
Để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt thì đậu tương cần được bón đầy đủ phân hữu cơ và các loại phân khoáng khác, qui trình bón phân cho cây đậu tương như sau:
Liều lượng: Liều lượng phân bón cho 1 ha
- Phân chuồng: 6-10 tấn.
- Phân đạm: 10-20 N ≈ 50-l00 kg đạm sunfat hoặc 20-40 kg đạm urê.
- Lân: 30-60 P2O5 ≈ 150-300 kg supe lân.
- Kali : 40-70 K2O ≈ 80- 150 kg kali sunfat.
- Vôi: 300-500 kg vôi bột.


Cách bón:
- Bón toàn bộ vôi trước lúc bừa lần cuối cùng.
- Bón lót vào rãnh hoặc hốc toàn bộ phân chuồng cộng toàn bộ lân và một nửa số đạm và số phân kali. Sau khi bón lót phân chuồng và phân vô cơ cần dùng đất nhỏ lấp kín toàn bộ phân dày 2-3 cm, tránh để phân tiếp xúc với hạt làm giảm tỉ lệ nảy mầm. Khi đất quá ướt (độ ẩm đất >90%) hoặc quá khô thì không nên bón lót phân đạm và kali mà để phân N và K lại tập trung cho bón thúc sớm khi cây có 3-5 lá kép, để phân không ảnh hưởng đến tỉ lệ nảy mầm.
- Bón thúc: Bón 1/2 lượng phân đạm và kali còn lại vào lúc cây có 3-5 lá kép.
Bón cách gốc 3-5 cm sau đó xới vun lấp toàn bộ phân.


(Nguồn TK:Giáo trình cây đậu tương -Trần Văn Điền -Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2007).

 

Về đầu trang

home

 

 

 

 

 

 

Hội hợp tác khoa học Nông nghiệp, Nông thôn Việt Nam - Hàn Quốc (VietKoRAA)
Địa chỉ: Viện Thổ nhưỡng Nông hóa
Phố Lê Văn Hiến, P. Đức Thắng, Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam