Header

Ban biên tập

  • Nguyễn Văn Bộ - Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
  • Trần Minh Tiến - Viện Thổ nhưỡng Nông hóa
  • Bùi Huy Hiền - Hội Khoa học đất
  • Bùi Quang Đãng - Ban Khoa học & HTQT, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
  • Đỗ Minh Phương -  Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp
  • Trần Thị Minh Thu - Viện Thổ nhưỡng Nông hóa


Khái niệm phân hữu cơ

Các dạng phân hữu cơ

Vai trò của phân hữu cơ

Kỹ thuật sử dụng phân hữu cơ

 

Khái niệm

 

Là những loại phân bón có chứa các chất dinh dưỡng đa, trung, vi lượng ở dưới dạng những hợp chất hữu cơ, được dùng trong sản xuất nông nghiệp, có nguồn gốc, được hình thành từ phân, chất thải gia súc, gia cầm, tàn dư thân, lá cây,phụ phẩm từ sản xuất nông nghiệp, than bùn hoặc các chất hữu cơ từ chất thải sinh hoạt, nhà bếp, từ các nhà máy sản xuất thủy, hải sản,…
Phân hữu cơ được chia thành 2 nhóm: Phân hữu cơ nhà nông (truyền thống) và phân hữu cơ công nghiệp (hữu cơ khoáng, hữu cơ sinh học, phân vi sinh và hữu cơ vi sinh).

 

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Các dạng phân hữu cơ

Phân hữu cơ truyền thống

Phân hữu cơ truyền thống là loại phân có nguồn gốc từ chất thải của người, động vật hoặc từ các phế phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phân xanh, rác thải hữu cơ, các loại than bùn được chế biến theo phương pháp ủ truyền thống. Có thể chia phân hữu cơ truyền thống ra làm 4 nhóm: i) Phân chuồng; ii) Phân rác; iii) Than bùn và iv) Phân xanh.


i) Phân chuồng: có ưu điểm là chứa đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng đa, trung và vi lượng mà một loại phân bón vô cơ không có được. Ngoài ra, phân chuồng cung cấp chất mùn làm kết cấu của đất tốt lên, tơi xốp hơn, bộ rễ phát triển mạnh, hạn chế nước bốc hơi, chống được hạn, xói mòn. Tuy nhiên, phân chuồng cũng có nhược điểm như: hàm lượng chất dinh dưỡng thấp nên phải bón lượng lớn, đòi hỏi chi phí vận chuyển cao, ngoài ra nếu không chế biến kỹ có thể mang đến một số nấm bệnh cho cây trồng.

Chuongtrau

 

Số liệu ở trong và ngoài nước về thành phần các nguyên tố dinh dưỡng chính trong phân chuồng được thể hiện ở các bảng 1, 2, 3.

Bảng 1. Thành phần của các loại phân chuồng (có độn)*

Loại nguyên tố dinh dưỡng

Biên độ % trong phân chuồng tươi của

Ngựa

Lợn

Dê, cừu

Thành phần phổ biến

N

0,32 - 0,84

0,21 – 0,75

0,28 – 1,05

-

P2O5

0,18 – 0,68

0,11 – 0,65

0,15 – 0,73

-

K2O

0,23 – 0,80

0,19 – 0,75

 0,22 – 0,85

-

Thành phần chi tiết

Nước

77,30

71,30

72,40

64,60

Chất hữu cơ

20,30

25,40

25,00

31,80

N tổng số

0,45

0,58

0,65

0,83

N-Prôtit

0,28

0,35

-

-

N-Amoniac

0,14

0,19

0,20

-

P2O5

0,23

0,28

0,19

0,23

K2O

0,50

0,63

0,60

0,67

CaO

0,40

0,21

0,18

0,33

MgO

0,11

0,14

0,09

0,18

SO3

0,06

0,07

0,08

0,15

Cl

0,10

0,04

0,17

0,17

SiO2

0,85

1,77

0,08

1,47

R2O3

0,05

0,11

0,07

0,24

* Lê Văn Căn, 1975

Bảng 2. Hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng vi lượng trong phân chuồng tươi (75% ẩm) theo Atkirson*

Loại vi lượng

Số lượng trong 10 tấn (g)

Tối đa

Tối thiểu

Trung bình

B

130,0

11,2

50,5

Mn

1.372,0

182,5

500,0

Co

12,0

0,6

2,6

Cu

102,0

19,0

39,0

Zn

618,0

107,0

240,0

Mo

10,5

2,1

5,1

* Do Lê Văn Căn, 1975 trích dẫn


Bảng 3. Thành phần phân tươi của các loại gia súc ở miền Bắc Việt Nam*

Loại gia súc

Mức

Thành phần, %

N

P2O5

K2O

H2O

Trâu

Tối đa
Tối thiểu

Trung bình

0,358
0,246
0,306

0,205
0,155
0,174

1,600
1,129
1,360

 

82,3

Tối đa
Tối thiểu

Trung bình

0,380
0,302
0,341

0,294
0,164
0,227

0,992
0,924
0,958

 

73,8

Lợn

Tối đa
Tối thiểu

Trung bình

0,861
0,537
0,669

1,959
0,932
1,253

1,412
0,954
1,194

 

66,2

* Lê Văn Căn, 1975

Căn cứ vào số liệu bảng 2 và 3 có thể thấy: ở miền Bắc Việt Nam khi bón 10 tấn phân chuồng tươi cho một ha thì trung bình đất được bổ sung thêm lượng dinh dưỡng sau: 30 – 67 kg N, 17 – 125 kg P2O5, 95 – 136 kg K2O, 50 – 200 g B, 500 – 2.000 g Mn, 2 – 10 g Co, 50 – 150 g Cu, 200 – 1.000 g Zn, 5 – 25 g Mo.
Tuy nhiên, phân hữu cơ truyền thống, trong đó có phân chuồng, cũng có những nhược điểm như: hàm lượng chất dinh dưỡng thấp, phải bón lượng lớn, khó vận chuyển đi xa, nếu không chế biến kỹ có thể mang đến một số nấm bệnh cho cây trồng. Ngoài ra do lên men, phân hữu cơ chứa các axit hữu cơ, nếu không kết hợp với bón vôi sẽ làm chua đất. Những chân ruộng trũng, lầy thụt,... cũng không nên bón nhiều phân hữu cơ.
Xuất phát từ yêu cầu trên nên phân chuồng cần được nhà nông tự sản xuất chế biến. Đây cũng là điều kiện thuận lợi vì các phương pháp ủ phân đã được nông dân áp dụng từ lâu tùy theo từng loại phân (bảng 4, 5). Như vậy phương pháp ủ phân chuồng được tiến hành như sau: Phân chuồng xếp thành lớp rộng nén chặt đến khi đống phân cao 1,5-2,0 m. Trát kín bùn, ở giữa chọc một lỗ hình phễu để tưới nước. ủ từ 2 đến 6 tháng. Song thông thường, nên ủ phân chuồng với đất bột, với lân (bất cứ loại phân lân nào, tỷ lệ 2%), có thể thêm vôi (3-5%) cho phân mang hoai hơn, bớt chua, các vi sinh vật hoạt động thuận tiện hơn. Số liệu bảng 6 đề cập đến lượng chất thải trung bình 1 ngày và 1 năm của một đầu gia súc. Trong thực tế nông dân còn sử dụng một số nguyên liệu thực vật để độn trong chuồng.

Bảng 4. So sánh các phương pháp ủ phân chuồng
(Số liệu của Viện Hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô cũ)

Phương pháp ủ

Phân chuồng độn rơm rạ

Phân chuồng độn than bùn

Mất chất hữu cơ, %

Mất N, %

Mất nước phân, %

Mất chất hữu cơ, %

Mất N, %

Mất nước phân, %

Ủ nóng

32,6

31,4

10,5

40,0

25,2

4,3

Ủ nóng đến 60oC rồi nện chặt

24,6

21,6

5,1

32,9

17,1

3,4

Ủ nguội

12,2

10,7

4,9

7,0

1,0

0,6


Bảng 5. Ảnh hưởng của thời gian ủ đến thành phần phân chuồng

Chỉ tiêu

Phân chuồng tươi

Sau 2 tháng ủ

Sau 4 tháng ủ

Sau 6 tháng ủ

Nước

72,00

75,50

74,00

68,00

Chất hữu cơ

24,50

19,50

18,00

17,50

Đạm tổng số

0,52

0,60

0,66

0,73

Đạm prôtit

0,33

0,45

0,54

0,68

Đạm amoniac

0,15

0,12

0,10

0,05

Lân tổng số (P2O5)

0,31

0,38

0,43

0,48

Kali tổng số (K2O)

0,60

0,64

0,72

0,84

 

Bảng 6. Lượng chất thải trung bình trong 24 giờ ( 1 ngày đêm) và
trong 1 năm với 1 đầu gia súc, %

Loại gia súc

Trong 24 giờ, kg

Số ngày tại chuồng, tấn

Phân

Nước giải

200-240 ngày

200-220 ngày

180-200 ngày

< 180 ngày

Trâu, bò

20 - 30

10 - 15

8 - 9

7 - 8

6 - 7

4 - 5

Lừa ngựa

15 - 20

4 - 6

6 - 7

5 - 6

4 - 5

3 - 4

Lợn

1,2 - 3,0

2,5 - 4,5

1,5 - 2,0

1,2 - 1,5

1,0 - 1,2

0,8 - 1,0

Dê, cừu

1,5 - 2,5

0,6 - 1,0

0,8 - 0,9

0,7 - 0,8

0,6 - 0,7

0,4 - 0,5

* Lê Văn Căn, 1975
(Nguồn: Sổ tay phân bón – Viện Thổ nhưỡng Nông hóa)

ii) Phân rác: Loại phân này làm từ rơm, rạ; thân lá các cây ngô, đậu, đỗ, vỏ lạc, trấu, bã mía, v.v... chặt thành đoạn ngắn 20-30 cm, có thể ngâm nước vôi loãng 2-3 ngày trước khi ủ. Phương pháp ủ phân rác được tiến hành như sau: phân rác xếp thành lớp và cứ 30 cm rắc một lớp vôi bột.

Phan_Rac

 

iii) Than bùn: Trong quá trình cấu tạo địa chất, một số rừng cây bị phù sa vùi lấp lâu ngày, phân giải yếm khí, tạo thành than bùn. Dùng than bùn đã được phơi khô để độn chuồng, hoặc có thể dùng để chế biến phân rác, làm chất đốt, chất cải tạo đất. Than bùn thượng thành không dùng trực tiếp làm phân bón, chỉ để ủ phân rác hoặc độn chuồng; than bùn hạ thành có độ phân giải cao (>50%) và pH từ 5,5 trở lên có thể bón trực tiếp, nhất là dùng để làm chất cải tạo lý tính đất; than bùn chuyển tiếp là loại trung gian.
- Các mẫu than bùn đều khá nhuyễn, mức độ phân giải trung bình là 35,3% khối lượng mẫu là nhỏ hơn 0,2 mm; cao nhất là 44,8% và thấp nhất là 25,3% và thích hợp cho sản xuất phân bón. Mức độ phân giải ở các mỏ là tương đối giống nhau và càng xuống sâu thì khả năng phân giải càng cao.


iv) Phân xanh: Phân xanh là tên gọi chung các cây hoặc lá cây tươi được ủ hay vùi thẳng xuống đất để bón ruộng. Đồng thời với tác dụng làm phân bón, cây phân xanh có thể phủ đất, chống xói mòn, bảo vệ đất và làm cây che bóng.

Phan_Xanh


 

v) Các loại phân hữu cơ khác: Phân bắc có chất lượng cao, nhưng cần ủ kỹ hoặc sát trùng trước khi dùng.


vi) Bùn ao, bùn hồ, bùn sông có hàm lượng mùn trung bình là: 4,90% (dao động trong khoảng 1,65 –14,90%), N tổng số: 0,23% (dao động 0,11 –0,52%), P2O5 tổng số: 0,29% (dao động 0,21- 0,48%), K2O tổng số: 0,40% (dao động 0,13-0,70%), H2S trung bình là 7,1 mg/100 g bùn (dao động 3,4 -13,6 mg/100 g) nên có thể bón cho cấy trồng.


vii) Nước phù sa: Như chúng ta đã biết thuật ngữ “Phù sa” là chỉ hạt đất có kích thước từ thô đến mịn do bị cuốn theo các dòng chảy (sông, suối) và được lắng đọng ở ven sông, cửa sông hay gần bờ biển.


viii) Khô dầu: là bã còn lại sau khi hạt đã ép lấy dầu. Tùy theo thành phần của mỗi loại khô dầu mà nông dân đã sử dụng như loại phân bón hữu cơ bón vào đất để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
vi) Tro: Tro là chất còn lại của một số vật sau khi cháy hết và thường có màu xám. Trong nông nghiệp một số nguyên liệu thực vật như cây: sắn, bông, ngô, lá dừa, mạt cưa, v.v.... sau khi bị đốt có tỷ lệ tro và chất dinh dưỡng khá cao.

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Phân hữu cơ công nghiệp
Phân hữu cơ công nghiệp là một loại phân được chế biến từ các nguồn hữu cơ khác nhau để tạo thành phân bón tốt hơn so với bón nguyên liệu thô ban đầu.
Hiện nay có thể chia ra 5 loại phân hữu cơ công nghiệp, đó là: phân hữu cơ, phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ sinh học, phân vi sinh, phân hữu cơ vi sinh.

Huuco_CN

Phân bón hữu cơ được sản xuất theo quy trình công nghiệp


i) Phân hữu cơ chế biến: là loại phân bón được sản xuất chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hữu cơ với tiêu chuẩn như sau: ẩm độ đối với phân bón dạng bột không vượt quá 25%; hàm lượng hữu cơ tổng số không thấp hơn 22%; hàm lượng đạm tổng số (Nts) không thấp hơn 2,5%; pHH2O (đối với phân hữu cơ bón qua lá) trong khoảng từ 5-7.


ii) Phân hữu cơ khoáng: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ phối trộn thêm một hoặc nhiều yếu tố dinh dưỡng khoáng, trong đó có ít nhất một yếu tố dinh dưỡng khoáng đa lượng.


iii) Phân hữu cơ sinh học: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ theo quy trình lên men có sự tham gia của vi sinh vật sống có ích hoặc các tác nhân sinh học khác.


iv) Phân vi sinh: là loại phân trong thành phần chủ yếu có chứa một hay nhiều loại vi sinh vật sống có ích bao gồm: nhóm vi sinh vật cố định đạm, phân giải lân, phân giải kali, phân giải xenlulo, vi sinh vật đối kháng, vi sinh vật tăng khả năng quang hợp và các vi sinh vật có ích khác với mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật đã ban hành là mật độ mỗi chủng VSV có ích không thấp hơn 1 x 108 CFU/g (ml).
Trên cơ sở tính năng tác dụng của các chủng loại VSV sử dụng, phân bón VSV còn được gọi dưới các tên:
- Phân VSV cố định nitơ (phân đạm vi sinh, nitragin) chứa các VSV sống cộng sinh với cây bộ đậu, hội sinh trong vùng rễ cây trồng cạn hay tự do trong đất, nước có khả năng sử dụng nitơ (N) từ không khí tổng hợp thành đạm cung cấp cho đất và cây trồng.
- Phân VSV phân giải hợp chất phốt pho khó tan (phân lân vi sinh, photphobacterin) sản xuất từ các VSV có khả năng chuyển hóa các hợp chất phốt pho khó tan thành dễ tiêu cho cây trồng sử dụng.
- Phân VSV kích thích, điều hòa sinh trưởng thực vật chứa các VSV có khả năng sản sinh hoạt chất sinh học có tác dụng điều hòa, kích thích quá trình trao đổi chất của cây.
- Phân VSV có chứa các chủng VSV đối kháng vi khuẩn/vi nấm gây bệnh vùng rễ cây trồng cạn.
- Phân VSV đa chủng, phân VSV chức năng có chứa hỗn hợp các VSV có khả năng cố định nitơ, phân giải phốt phát khó tan, sinh tổng hợp hoạt chất kích thích sinh trưởng thực vật và đối kháng vi khuẩn/vi nấm gây bệnh vùng rễ cây trồng có tác dụng cung cấp dinh dưỡng và nâng cao hiệu quả sử dụng phân khoáng, đồng thời có khả năng hạn chế bệnh vùng rễ cây trồng do vi khuẩn hoặc vi nấm gây ra, qua đó nâng cao năng suất nông sản và hiệu quả kinh tế.


v) Phân hữu cơ vi sinh: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ có chứa ít nhất một chủng vi sinh vật sống có ích với mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật đã ban hành, cụ thể như sau: hàm lượng hữu cơ tổng số không thấp hơn 15%; ẩm độ đối với phân bón dạng bột không vượt quá 30%; mật độ mỗi chủng VSV có ích không thấp hơn 1 x 106 CFU/g (ml).
Trước công nguyên hơn 2000 năm loài người đã biết dùng phân hữu cơ bón ruộng cải tạo đất, nâng cao năng suất cây trồng. Theo Phratus (372-287 trước công nguyên) phân hữu cơ đã được phân cấp chất lượng như sau: Tốt nhất là phân người (phân bắc) và sau đó lần lượt là các loại phân lợn, dê, cừu, bò cái, bò đực và kém hơn cả là phân ngựa.
Dấu ấn người Việt Nam biết sử dụng phân hữu cơ để bón ruộng được Lê Quý Đôn (1773) viết trong cuốn Vân Đài Loại Ngữ ghi lại từ sách Tề Dâm Yếu Thuật: "Phép làm tốt ruộng thì trước hãy nên trồng đậu. Đậu xanh tốt hơn, thứ đến đậu nhỏ và vừng (hồ ma). Các thứ ấy đều trồng trong tháng 5 tháng 6. Đến tháng 7 tháng 8 thu hoạch xong, cày lật úp xuống, làm ruộng rồi trồng lúa thì mùa xuân năm sau mỗi mẫu thu được vài chục tạ thóc.

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Vai trò của phân hữu cơ
Phân hữu cơ nói chung có ưu điểm là chứa đầy đủ các nguyên tố dinh dưỡng đa, trung và vi lượng mà không một loại phân khoáng nào có được. Ngoài ra, phân hữu cơ cung cấp chất mùn làm kết cấu của đất tốt lên, tơi xốp hơn, bộ rễ phát triển mạnh, hạn chế mất nước trong quá trình bốc hơi từ mặt đất, chống được hạn, chống xói mòn.
Vào những năm của thập kỷ 60 thế kỷ 20 do nguồn phân khoáng có hạn nên sử dụng phân chuồng bình quân hơn 6 tấn/ha/vụ. Trong giai đoạn 15 năm (1980-1995) việc sản xuất và sử dụng phân hữu cơ có giảm sút, nhưng từ năm 1995 lại đây do yêu cầu thâm canh, do sự khuyến khích sản xuất, sử dụng phân hữu cơ được phục hồi, nên số lượng phân hữu cơ được sản xuất, sử dụng đã tăng lên đáng kể.
Bón phân hữu cơ làm tăng năng suất cây trồng. Kết quả nghiên cứu khoa học trong rất nhiều năm của các viện, trường, cũng như kết quả điều tra kinh nghiệm của các hộ nông dân cho thấy, năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế cao, ổn định ở những nơi có bón tỷ lệ N hữu cơ và N vô cơ cân đối với tỷ lệ N tính từ hữu cơ chiếm khoảng 25-30% tổng nhu cầu của cây trồng. Ước tính do bón phân hữu cơ năng suất cây trồng đã tăng được 10-20%. Nếu tính riêng về thóc do bón phân hữu cơ (chủ yếu là phân chuồng) đã đạt khoảng 2,5-3,0 triệu tấn thóc/năm.
Bón phân hữu cơ còn làm giảm bớt lượng phân khoáng cần bón do phân hữu cơ có chứa các nguyên tố di dưỡng đa lượng, trung lượng và vi lượng. Kết quả nghiên cứu và điều tra cho thấy nếu bón 10 tấn phân chuồng/ha có thể giảm bớt được 40-50% lượng phân kali cần bón.
Không ai có thể phủ định chất hữu cơ đất quyết định tính ổn định độ phì nhiêu đất. Mất chất hữu cơ, đất mất khả năng canh tác và nếu muốn canh tác phải có đầu tư lớn.
Bón chất hữu cơ sẽ cải thiện được các tính chất vật lý đất, hóa học và sinh học của đất; đồng thời hạn chế mức độ độc hại của một số nguyên tố như: nhôm (Al), sắt (Fe); giảm bớt sự cố định lân trong đất dưới tác dụng kết hợp Al3+, Fe3+ dưới dạng phức chất; nâng cao sự hoà tan lân ở dạng phốt phát sắt hoá trị ba dưới tác dụng khử ôxy.
Bón phân hữu cơ có tác dụng làm giảm rửa trôi, giảm bốc hơi của phân đạm bón vào. Do đó, hiệu quả sử dụng của phân đạm vô cơ tăng lên, hiệu suất sử dụng phân đạm của lúa có thể tăng lên 30-40% trên nền bón phân hữu cơ so với nền không bón.
Từ những tác dụng tổng hợp của phân hữu cơ đã nêu ở trên, bón phân hữu cơ góp phần cải thiện được chất lượng nông sản, nhất là với những cây rau, hoa quả, lúa đặc sản, ... như giảm làm lượng nitrat, tăng hàm lượng vitamin, các hợp chất tạo hương, vị, v.v…

(Nguồn: TS. Bùi Huy Hiền –Phân hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp bền vững ở Việt Nam)

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Kỹ thuật sử dụng phân hữu cơ

Kỹ thuật sử dụng phân bón hữu cơ truyền thống
Là tên gọi chung của các loại phân chế biến theo phương pháp kỹ thuật ủ truyền thống từ phế phụ phẩm từ nông nghiệp như phân chuồng, phân rác, phân xanh,…bón được cho hầu hết các loại đất và tất cả loại cây trồng.
Đối với nhóm phân này trước khi đưa vào sử dụng bón cho đất cần phải chế biến (ủ) cho hoại mục. Phân chuồng tươi, chưa ủ hoại mục khi đó phân chứa các dưỡng chất khó tiêu cây trồng khó hấp thu, ngoài ra còn gây ô nhiễm môi trường, trong quá trình phân hủy các chất sẽ sản sinh ra một số chất gây độc cho rễ (hiện tượng ngộ độc hữu cơ) và trong phân chuồng tươi, phân chưa ủ hoại mục tồn tại nhiều dạng nấm bệnh, hạt cỏ dại gây hại cho cây trồng, các vi khuẩn thổ tả, ký sinh trùng, trứng giun, trứng sán,…gây bệnh cho con người. Khi ủ hoai mục sẽ tiêu diệt các mầm mống bệnh hại, hạt cỏ dại tồn tại trong phân, thúc đẩy nhanh các quá trình khoáng hóa, phân giải những chất khó hấp thu để cây trồng dễ hấp thu hơn và hấp thu nhanh hơn.
Phân hữu cơ truyền thống được sử dụng chủ yếu để bón lót khi làm đất, trước khi trồng. Cách bón là bón theo hàng, theo hốc, theo hố hoặc bón rải trên mặt đất rồi cày vùi xuống. lượng phân bón tùy thuộc vào nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng nhiều hay ít, loại đất tốt hay đất xấu và chất lượng của phân bón, phân bón chất lượng tốt thì bón ít, phân có hàm lượng dinh dưỡng thấp thì bón nhiều, phân chuồng bón từ 0,5-2 tấn/hecta. Phân xanh cày vùi vào đất khi cây ra hoa lúc làm đất.

 

Về đầu trang

home

 

 

 

Kỹ thuật sử dụng phân hữu cơ chế biến
Gồm các loại phân hữu cơ được chế biến từ các chất có nguồn nguyên liệu hữu cơ theo quy trình công nghiệp để sản xuất ra những sản phẩm phân bón có hàm lưỡng dinh dưỡng cao, chất lượng hơn so với nguyên liệu ban đầu. Có thể bón cho hầu hết các loại đất và các loại cây trồng, lượng phân bón tùy thuộc vào chất đất (đất xấu bón nhiều, đất tốt bón ít), vào cây trồng (cây xấu, có nhu cầu dinh dưỡng cao thì bón nhiều, cây tốt, có nhu cầu dinh dưỡng ít thì giảm lượng phân bón) vào chất lượng phân (phân có hàm lưỡng dinh dưỡng cao bón ít, hàm lượng dinh dưỡng thấp thì bón nhiều).


Phân hữu cơ chế biến
Có thể sử dụng cho cả bón lót lẫn bón thúc, được chế biến từ những chất có nguồn gốc hữu cơ.
Bón theo hàng, theo hốc hay rải đều trên mặt đất rồi cày vùi, bón lót khi làm đất trước gieo trồng. Bón thúc theo chiều rộng của tán cây, bón vòng quanh tán cây, đào rãnh để bón hoặc rải đều trên mặt đất đối với cây lâu năm. Đối với cây ngắn ngày thì dụng bón lót là chủ yếu, bón thúc nên bón sớm để phân đạt hiệu quả cao hơn.

Phân vi sinh
Là phân bón trong thành phần có chứa các vi sinh vật có lợi (vsv cố định đạm, vsv phân giải, vsv đối kháng,…), bón vào đất với công dụng như tổng hợp các chất (vsv cố định đạm) phân giải những chất khó tiêu thành chất dễ tiêu (vsv phân giải lân,…) khống chế (ức chế hoặc tiêu diệt) mầm bệnh trong đất (các vsv đối kháng, ký sinh,…)
Dùng bón lót hay bón thúc đều được nhưng đối với cây ngắn ngày sử dụng để bón lót là chính. Bón lót rải đều khi làm đất rồi cầy vui hay bón theo hàng, hốc rồi phủ một lớp đất mỏng rồi gieo trồng. Đối với cây trồng lâu năm bón thúc bằng cách đào rãnh, rải phân và phủ một lớp đất mỏng hay rải đều phần theo chiều rộng tán cây rồi tưới nước. Với một số cây trồng khác có thể bón theo hốc theo hàng.
Phân vi sinh phát huy hiệu quả ở những vùng đất mới, đất thoái hóa, phèn, đất chai cứng…do làm dụng phân vô cơ hay bón trong thời gian dài, vùng chưa canh tác những loại cây trồng có các loại vi khuẩn cộng sinh. Tuy nhiên, phân có nhược điểm là có hạn sử dụng, vì vi sinh vật cần có các chất hữu cơ làm thức ăn nhưng trong phân vi sinh hàm lượng các chất hữu cơ rất ít, nguồn chất hữu cơ có hạn. Đây cũng là lý do cho các loại phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ vi sinh ra đời, để có sản phẩm phân bón chất lượng hơn và thể kéo dài thời hạn sử dụng của phân bón.


Phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ vi sinh
Được sản xuất từ nguồn liệu hữu cơ, áp dụng công nghệ sinh học trong quá trình sản xuất, phối trộn với một số chất để tăng hiệu quả của phân bón. Là phân bón giúp cải tạo đất đai rất có hiệu quả.
Có thể dùng bón gốc hay phun lên lá. Sử dụng cho cả bón lót và bón thúc. Đối với cây ngắn ngày thì bón lót là phần nhiều, bón bằng cách rải đều rồi vùi xuống khi làm đất hoặc bón theo hốc, hàng phủ một lớp đất mỏng rồi mới gieo trồng, với cây lâu năm bón theo hố trộn đều với lớp đất mặt rồi cho xuồng hố rồi trồng. Bón lón với cây lâu năm bón vòng quanh tán theo chiều rộng của tán đào rãnh bón rồi lấp một lớp đất mỏng hoặc rải đều trên mặt đất rồi tưới nước ngay. Với các loại phân bón lá thì hòa tan theo liều lượng chỉ dẫn của nhà sản xuất rồi phun đều lên toàn bộ cây trong vườn.
Chú ý: Khi sử dụng các sản phẩm phân vi sinh, phân hữu cơ sinh học, vi sinh không nên sử dụng các loại thuốc BVTV, phân bón hóa học để phân bón đạt hiệu quả cao, vì phân hóa học, thuốc BVTV có thể làm chết vi sinh vật , giảm hiệu lực của phân bón. Sau khi bón cần giữ độ ẩm thích hợp cho vi sinh vật hoạt động và phát triển.


Phân hữu cơ khoáng
Là phân hữu cơ được trộn thêm 8-18% các nguyên tố khoáng vô cơ. Phân có hàm lưỡng vô cơ nhiều nên dùng để bón thúc là chính. Cách bón tương tự như phân hữu cơ sinh học là bón vòng quanh tán với cây lâu năm, theo hàng theo hốc với cây ngắn ngày. Nhược điểm là bón nhiều không có lợi cho hệ vi sinh vật đất.

 

 

Về đầu trang

home

 

 

 

 

 

 

 

Hội hợp tác khoa học Nông nghiệp, Nông thôn Việt Nam - Hàn Quốc (VietKoRAA)
Địa chỉ: Viện Thổ nhưỡng Nông hóa
Phố Lê Văn Hiến, P. Đức Thắng, Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam